Thiếu hụt vitamin D gây còi xương
Theo Khuyến nghị dinh dưỡng trong 1000 ngày vàng, Viện Dinh dưỡng, tại xương, vitamin D cùng hormon cận giáp kích thích chuyển hoá canxi và phospho, làm tăng quá trình lắng đọng canxi của xương. Lượng vitamin D đầy đủ trong cơ thể là điều kiện thiết yếu để canxi và phospho được gắn trong mô xương.
Vitamin D là một chất quan trọng giúp điều hoà cân bằng nội môi của canxi và phospho trong cơ thể. Vitamin D cũng đóng vai trò trong quá trình phân chia tế bào, bài tiết và chuyển hoá các hormone, bao gồm hormone tuyến cận giáp và insulin. Vitamin D cũng có khả năng ảnh hưởng đến sự biệt hoá một số tế bào ung thư như ung thư da, xương, và các tế bào ung thư vú.
Thiếu hụt vitamin D trầm trọng gây ra còi xương ở trẻ sơ sinh và trẻ em, và loãng xương ở người lớn, được đặc trưng bởi tổ chức hữu cơ của xương không được khoáng hoá. Thiếu hụt vitamin D trong thời gian mang thai có liên quan với bệnh tiểu đường do mang thai, tiền sản giật, và thai nhi nhỏ. Chế độ ăn nghèo canxi sẽ làm tăng dị hóa vitamin D, thiếu vitamin D và còi xương. Những năm gần đây, thiếu vitamin D được quan tâm nhiều ở Châu Á do tỷ lệ còi xương và loãng xương tăng ở nhiều quốc gia. Còi xương và loãng xương là hiện tượng phổ biến.
Phòng chống thiếu vitamin D bằng thực phẩm
Ăn uống đa dạng các loại thực phẩm, sử dụng thực phẩm giàu vitamin D như cá, trứng (lòng đỏ trứng), gan, dầu cá…; Lựa chọn các thực phẩm bổ sung vitamin D như sữa, bột dinh dưỡng cho trẻ em, bột mì, bánh qui, margarin, dầu ăn, ngũ cốc…
Ăn các thực phẩm giàu canxi như tôm, cua, cá, sữa, và các sản phẩm từ sữa như sữa chua, bánh flan, phomat …. Cần chú ý canxi trong sữa dễ hấp thụ hơn canxi từ các nguồn thực phẩm khác; cá nhỏ nguyên xương, tôm tép nguyên vỏ mới chứa nhiều canxi. Bữa ăn cần có đủ dầu, mỡ để tăng hấp thu vitamin D. Ngoài ra chế độ ăn cần có đủ chất đạm, vitamin và khoáng chất (magie, kẽm, tỷ lệ canxi/phospho cân đối…).
Với bà mẹ mang thai và cho con bú: Thường xuyên tiếp xúc với ánh nắng mặt trời vào buổi sáng sớm (nên trước 9h sáng). Bà mẹ mang thai và cho con bú cần ăn uống đầy đủ. Vào những tháng cuối thai kỳ nên dùng thức ăn có nhiều canxi, vitamin D, phospho
Ngoài ra, do các bằng chứng hiện có về đánh giá lợi ích và tác hại của việc sử dụng bổ sung vitamin D trong thời gian có thai để phòng chống tiền sản giật và các biến chứng của nó chưa được Tổ chức Y tế Thế giới khuyến nghị. Ngoài ra, do các bằng chứng hiện có về đánh giá lợi ích và tác hại của việc sử dụng bổ sung vitamin D trong thời gian có thai để cải thiện sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh còn hạn chế, việc bổ sung vitamin D trong khi mang thai như là một phần của chăm sóc tiền sản cũng chưa được Tổ chức Y tế Thế giới khuyến nghị.
Trong trường hợp thiếu vitamin D, bổ sung vitamin D hàng ngày có thể theo khuyến nghị của WHO/FAO hoặc theo nhu cầu khuyến nghị cho người Việt Nam năm 2016. Vitamin D có thể được bổ sung đơn lẻ hoặc là một thành phần của chế phẩm đa vi chất dinh dưỡng, để cải thiện nồng độ vitamin D trong huyết thanh mẹ. Cho đến nay, các kết quả nghiên cứu cho thấy lợi ích của can thiệp bổ sung vitamin D cho bà mẹ hoặc cho trẻ sinh ra còn chưa rõ ràng.
Phòng bệnh cho con: Cho trẻ bú sớm, nuôi trẻ hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu và tiếp tục cho trẻ bú sữa mẹ cùng với ăn bổ sung hợp lý đến 24 tháng tuổi hoặc lâu hơn với đầy đủ các nhóm thức ăn, ưu tiên các thức ăn giàu canxi, vitamin D (hải sản, bơ, sữa, trứng, dầu gan cá..).
Phòng chống thiếu vitamin D cho trẻ bằng cách thường xuyên tắm nắng cho bé là cách tốt nhất để phòng chống thiếu vitamin D, có thể tiến hành từ tuần thứ 2 sau sinh. Vitamin D có hàm lượng rất thấp trong thức ăn và sữa mẹ (10-20 UI/100ml), vì vậy tắm nắng rất quan trọng cho tăng trưởng và phát triển của trẻ em. Tắm nắng tuần 3-4 buổi, mỗi buổi 15-20 phút, tốt nhất vào buổi sáng, mùa đông có thể tắm nắng muộn hơn. Ánh nắng chiếu trực tiếp trên bề mặt da, diện tích da hở tối thiểu 30-40%.
Phòng bằng vitamin D: là biện pháp phòng có hiệu quả cần chỉ định cho các đối tượng đẻ non, đẻ thấp cân, trẻ phát triển nhanh, không có điều kiện tắm nắng. Từ tuần thứ 2 sau sinh: liều khuyến nghị là 400 đv/ngày cho trẻ dưới 1 tuổi và 600 đv/ngày cho trẻ từ 1 tuổi trở lên hoặc liều 1 lần duy nhất: 100.000 đv cho trẻ dưới 1 tuổi và 200.000 đv cho trẻ trên 1 tuổi nếu không uống thuốc đều hay có vấn đề rối loạn tiêu hóa kéo dài.